Phạm là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ Lĩnh". Dịch sang Hán ngữ đó là chữ "Phạm" của họ Phạm.
Họ Phạm ở Việt Nam có thể có hai nguồn gốc chính: từ cộng đồng tộc Việt trong Bách Việt của nước Văn Lang, Âu Lạc xưa và từ nguồn gốc ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc di cư sang và được Việt hoá. Ngoài ra còn có họ Phạm từ các dòng họ khác đổi sang như họ Mạc,…
Lịch sử họ Phạm Việt Nam
Theo truyền thuyết thì con rể vua Hùng là người họ Phạm. Một số mộ cổ ở Quảng Ninh, Thái Bình có ghi là “Phạm Công” có cách đây trên 2 ngàn năm. Phạm Công không phải là tên của một người nào đó mà là một cách xưng hô như: ông, ngài thời nay.
Theo điều tra, cho đến nay, Họ Phạm Việt Nam có hàng chục ngàn dòng họ không cùng một gốc, không cùng huyết thống. Các dòng họ Phạm – Việt Nam không có một ông tổ duy nhất. Do vậy, theo dòng họ Phạm Việt Nam đề nghị suy tôn Đô Hồ Đại vương Phạm Tu là một Thượng Thuỷ tổ họ Phạm Việt Nam. Ông là nhân vật lịch sử đầu tiên của dòng họ có công lao đối với đất nước đã được ghi vào sử sách.
Theo sử sách (Đại Việt sử ký toàn thư) và các sắc phong còn lưu tại Đình thờ Phạm Tu thì người được lịch sử ghi chép rõ ràng: Thân phụ của Phạm Tu là Phạm Thiều quê ở thôn Vực Mụ, xã Thanh Liệt, huyện Thường tín Hà Nội. Thân mẫu của Phạm Tu là Lý Thị Trạch cùng quê thân phụ Phạm Tu.
Phạm Tu sinh ngày Mười hai tháng Ba năm Bính Thìn (476), mất ngày Hai mươi tháng Bấy năm Ất Sửu (545). Phạm Tu là công thần số 1 thời tiền Lý: Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam đế là Nhà nước độc lập có tổ chức đầu tiên của Việt Nam. Với cương vị là người đứng đầu Ban Võ (tương đương với Bộ trưởng bộ quốc phòng bây giờ).
Như vậy Phạm Tu là người họ Phạm có công với đất nước xuất hiện đầu tiên trong chính sử được biết cho đến ngày nay, được sử sách ghi rõ ràng nên Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam suy tôn cụ là Thượng Thủy Tổ của họ Phạm Việt Nam. Việc suy tôn cụ Phạm Tu làm Thượng Thủy Tổ Họ Phạm VN có đủ căn cứ khoa học được Viện khoa học Lịch sử và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đồng tình.
Còn có nhiều dòng họ Phạm khác như họ Phạm ở Kính Chủ Hải Dương, Họ Phạm Hồng Át ở Hưng Yên, Phạm Nhữ Tăng ở Quảng Nam Đà Nẵng, Phạm Bạch Hổ vv…nhưng đều xuất hiện sau cụ Phạm Tu nhiều thế kỷ.
Đôi nét về dòng họ Phạm
Việt Nam có 6 dân tộc có người mang Họ Phạm:
* 1/165 họ của người Kinh,
* 1/11 họ của người Mường,
* 1/11 họ của người Tày,
* 1/172 họ của người Việt gốc Hoa,
* 1/49 họ của người Việt gốc Khmer.
Dân tộc Thái có người họ Phạm vốn là họ Khằm/Cầm chuyển sang
Trong các dân tộc ít người khác của Việt Nam, như dân tộc Chăm, tuyệt nhiên không có người nào họ Phạm.
Họ Phạm ở Việt Nam là một trong những dòng họ tương đối lớn (ước tính trên 5 triệu người) nhưng chưa một lần có người làm Vua; nhiều người họ Phạm là "Lương đống của xã tắc"
Nhân vật lịch sử họ Phạm đầu tiên trong chính sử là Danh tướng Phạm Tu - khai quốc công thần triều Tiền Lý, đã có công: đánh đuổi quân Lương (542), đánh tan quân xâm lấn Lâm Ấp (543), dựng Nhà nước Vạn Xuân (544)
Theo các bản Thần phả, Thần tích sự xuất hiện các vị họ Phạm sớm hơn, như :
* Nam Hải Đại Vương Phạm Hải , và ba anh em Phạm Vĩnh (Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng Thái Thượng đẳng Thần) thế kỷ III trước CN, giúp Vua Hùng thứ 18 đánh Thục
* Tướng quân Phạm Gia - tướng của An Dương Vương, 208 trước CN lui quân về vùng Hoài Đức
* Phạm Danh Hương chồng của Bát Nạn nữ tướng quân (thời Hai Bà Trưng)
Họ Phạm Việt Nam có sự chuyển cư rất mạnh lan tỏa trong vùng châu thổ sông Hồng, rồi vào Ái Châu (Thanh Hoá). Từ Thanh Hoá lại có sự chuyển cư trở lại vùng Sơn Nam Hạ (ngày nay là các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) và vào miền Nam Trung bộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, ... mạnh nhất là vào thời Lê (thế kỷ thứ XV).
Đặc biệt trong thời đại hội nhập quốc tế, người họ Phạm định cư ở nhiều nước trên thế giới