Nước ta có một lịch sử lâu dài chống ngoại xâm, vì thế việc binh bị thường được coi trọng. Việc tuyển chọn người tinh thông võ nghệ để ra giúp nước thời nào cũng có.
Nguồn gốc Võ Miếu
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua cho xây dựng Võ Miếu để thờ những bậc anh tài về quân sự. Võ Miếu được khởi công tháng 9 năm Ất Mùi tại làng An Ninh, huyện Hương Trà nằm phía bên trái Văn Miếu, mặt nhìn ra sông Hương.
Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1939), vua cho dựng bia Võ công ở trước sân Võ Miếu. Tấm giữa ghi bài ký về võ công, hai tấm ở trái và phải nêu danh những danh tướng đã đóng góp nhiều chiến công trong hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. Về sau, còn có hai tấm bia ghi tên những Tiến sĩ Võ khoa trong các khoa thi năm Ất Sửu (1865), Mậu Thìn (1868) và ân khoa Kỷ Tỵ (1869) [1]
Danh nhân bảng vàng
Bia Võ công ở bên trái (5 vị):
- Bình Thành bá Trương Minh Giảng...
- Tân Phước hầu Phạm Hữu Tâm, Thái tử Thiếu bảo, Tiền quân Đô thống Chưởng phủ sự lãnh chức Tổng đốc Hà Ninh, người Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
- Võ Lao hầu Tạ Quang Cự...
- Chương Nghĩa hầu Phan Văn Thúy...
- Tân Lộc nam Mai Công Ngôn...
Bia Võ công ở bên phải (4 vị):
- Tân Long hầu Nguyễn Xuân
- Tín Võ hầu Phạm Văn Điển, Thái tử Thái bảo Tiền quân Đô thống Phủ đô thống Chưởng phủ sự, người Phú Vang phủ Thừa Thiên
- Ân Quang tử Lê Văn Đức...
- Bình Khánh tử Trần Văn Trí...
- Tôn Thất Bật (bị đục tên trên bia do kết án dự mưu phản nghịch trong vụ Hồng Bảo)
Bia Tiến sĩ Võ khoa Mậu Thìn (1868)
- Nguyễn Văn Vận...
- Phạm Học: Năm Tự Đức thứ 11 thi đỗ tam trường. Hiện thụ chức Đội trưởng của đội 5 thuộc Võ Sinh vệ. Thi hội trúng thứ 5 hạng Thứ trúng cách. Sinh năm Kỷ Mão, 50 tuổi[2]. Người xã La Qua, tổng Hạ Nông Trung, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Nguyễn Văn Tứ...
- Dương Viết Thiệu...
- Đỗ Văn Kiệt...
Ngoài ra ân khoa Kỷ Tỵ (1869) còn có Võ Phó bảng Phạm Văn Thành. Về hai vị công thần họ Phạm thời đầu Triều Nguyễn là Phạm Hữu Tâm và Phạm Văn Điển
Chú thích:
[1] Số lượng khoa thi Võ là rất hạn chế (3 khoa)
[2] Người cao tuổi nhất đậu Tiến sĩ Võ